Theo ông Trần Sĩ Chương, các nhà xã hội
học dựa vào thuyết “Con người là sản phẩm của môi trường sống”, hiện
tượng này là do sự bất ổn định của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Khi sống
trong một xã hội có truyền thống bất ổn định thì con người với bản chất
sinh tồn bẩm sinh sẽ có khuynh hướng muốn hành động tự phát, thiếu lòng
tin vào tập thể, vào tương lai.
Tuy nhiên, ông Trần Sĩ Chương chưa nêu
được cái gốc của tố chất này. Nền văn minh của nước Việt là văn minh lúa
nước. Dân tộc Việt có tới 80% dân số làm nghề nông. Một nét đặc thù của
tư duy nông nghiệp là tư duy tư hữu; là “con gà tức nhau tiếng gáy”,
“sân gạch nhà ông không thể cao hơn sân gạch nhà tôi”…
Chính tố chất “tư hữu đậm đặc” này tuy
lặn sâu trong tiềm thức con người Việt, khó “điểm mặt chỉ tên”, nhưng nó
lại luôn kề vai sát cánh với mỗi người Việt cho dù họ đã là trí thức,
từ cơ quan nghiên cứu đến công sở…và nó là “người tình” trăm năm thủ
thỉ, gắn bó với ta khi ta cộng tác, làm việc với đồng nghiệp, bằng hữu.
Bỗng nhớ tới một câu “ngụ ngôn” khác sâu cay không kém: “Trong cái sự
mất đoàn kết, thì trí thức là hay mất đoàn kết nhất, rồi mới đến…đàn
bà”(!).
“Gieo tư duy gặt số phận”?
Tính cách người Việt ấy, lại được đặt trong một cơ chế và tư duy quản lý ra sao?
Khi bàn về sự lận đận, yếu kém và sự tụt
hậu của xã hội chúng ta trong những năm tháng thách thức nghiệt ngã
này, có nhà thơ đã nói: Hình như con người có số phận, thì dân tộc cũng
có số phận?
Bỗng nhớ tới câu chiêm nghiệm về luật
nhân- quả của đạo Phật, răn dạy con người ở kiếp nhân sinh: “Gieo tính
cách, gặt số phận”. Nhưng luật Đời cũng luôn cảnh báo cho bất cứ dân tộc
nào- gieo tư duy gặt số phận?
Tư duy của dân tộc Việt chúng ta đã từng
đổi mới để thích ứng với đòi hỏi của thời hiện đại, từ bao cấp chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường. Nhưng công bằng mà nói, tư duy đó thực
chất vẫn không thoát khỏi dấu ấn tiểu nông, gia trưởng. Trong tố chất
“tính cộng đồng” còn tồn tại cả tố chất “bầy đàn”, hình thành nên trên
hình thái lao động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công, không vượt khỏi
tầm chắn của lũy tre làng.
Chính tư duy “bầy đàn” và trọng hư danh
của con người tiểu nông, khi có quyền lực, dễ trở nên e ngại, phòng ngừa
với những người có tư duy độc lập khác với số đông. Thời nào, và dân
tộc nào cũng vậy, luôn có những con người thông minh, trí tuệ, luôn có
những con người biết nhìn ra sớm hơn cộng đồng mình, dám nhận thức bằng
sự kiểm chứng thực tiễn. Nhưng tư duy tiểu nông khi cực đoan, dễ nghi
ngờ, hoặc đánh đồng sự “khác biệt” của người tài là sự đối trọng, thậm
chí đối nghịch.
Cơ chế quản lý xã hội, một khi được xây
nên từ tư duy tiểu nông ấy, tạo nên một hệ thống chân rết cũng sẽ khó
chấp nhận những cá tính sáng tạo, mà chỉ thích sự ‘cào bằng” và sự nghe
lời. Khi ấy thì sự thông minh, năng lực sáng tạo, và niềm tin lý tưởng
chân lý là thực tiễn, rất có thể trở thành bi kịch cho chính người tài,
nếu không, chí ít anh ta cũng trở nên hoặc đơn độc, hoặc bị vô hiệu hóa
trong cộng đồng.
Tư duy và cơ chế quản lý “cào bằng” ấy
tạo ra sự bất công với những người tài, chỉ gặt hái được sự a dua cơ hội
của sự háo danh, sự vô cảm của số đông và làm thui chột tài năng sáng
tạo thực chất. Đó chính là nguyên nhân sâu xa, tạo ra “hố sâu” ngăn cách
giữa hai bờ tụt hậu và phát triển. Một dân tộc có nhiều người thông
minh như dân tộc Việt, vẫn có thể là dân tộc “chậm lớn” vì thế.
Liệu dân tộc Việt chúng ta có vượt lên được chính mình không?
Kim Dung
No comments:
Post a Comment