Thị trường an ninh và quân sự tư nhân bùng nổ mãnh liệt theo đà chiến tranh và những tranh chấp quân sự trên thế giới.
Tờ Telegraph dẫn lời ông Peter Singer, nhà phân tích an ninh tại Viện Brookings ở Washington, cho biết, thị trường quân đội tư nhân toàn cầu có giá trị khoảng 120 tỷ USD hàng năm, trên 50 quốc gia.
Giáo sư Deborah Avant thuộc Đại Học California cho biết: "Tốc độ phát triển ngành an ninh thật sự là một hiện tượng".
Chiến trường Iraq và Afghanistan thu hút nhân viên an ninh và quân sự tư nhân nhiều nhất. Hiện tại có từ 20,000 đến 30,000 thường dân làm việc cho Hoa Kỳ thông qua các hợp đồng quân sự, nhưng con số thực tế có thể nhiều hơn. Bộ Ngoại Giao HK hiện đang xử dụng 2,500 cảnh vệ, bảo vệ an ninh cho các nhà ngoại giao và toà đại sứ Mỹ ở Iraq.
Những công ty tư nhân có quy mô hoạt động lớn tại Iraq, gồm có: công ty Blackwater, DynCorp International, Halliburton, AmorGroup, CRG, Triple Canopy, Inc.
Dịch vụ an ninh tư nhân
Trong 10 năm qua, các công ty an ninh và quân sự tư nhân đã nở rộ. Ông Jose Luis Gomez del Prad, một chuyên viên Tây Ban Nha cho biết, bộ Quốc Phòng và Ngoại Giao HK đã thuê các công ty an ninh tư nhân, để xử dụng trong chiến tranh Iraq và Afghanistan.
Các công ty đó tuyển dụng những cựu chiến binh, cảnh sát tại các nước như Ecuador, Peru, Chile, Fiji để phục vụ công tác bảo vệ an ninh, huấn luyện binh sĩ, bảo vệ các đoàn xe tiếp tế, các căn cứ quân sự và các nhà ngoại giao.
Theo ước tính, hiện có khoảng 20,000 người làm việc cho các công ty an ninh tư nhân ở chiến trường Iraq, trong đó có 1,000 người châu Phi.
Có ý kiến cho rằng, chính phủ dùng tư nhân trong các cuộc chiến tranh, nhằm mục đích giảm thiểu thiệt hại nhân mạng cho quân đội.
Vì sao Hoa Kỳ tư nhân hoá quân đội?
Xử dụng tư nhân
Cuộc chiến tranh chống khủng bố ở 2 chiến trường Iraq và Afghanistan làm cho HK thiếu quân số, việc nầy làm bùng nổ hiện tượng "tư nhân hoá quân đội". Các công ty an ninh và quân sự tư nhân tham gia với tỷ lệ, 1 dân sự của nhà thầu so với 10 binh sĩ chính quy.
Tờ Washington Post cho biết, chương trình "tư nhân hoá chiến tranh" đã biến công nghiệp quốc phòng phức tạp hơn, và trị giá 100 tỷ USD mỗi năm.
Để tránh tiếng dư luận
Công ty Military Professional Resources, Inc. (MPRI) có 12,000 cựu chiến binh đầy kinh nghiệm về mọi lãnh vực, từ vũ khí hạt nhân đến chiến thuật tấn công bằng tàu ngầm, đã cung cấp nhân sự cho các trung tâm tuyển mộ của bộ binh Hoa Kỳ, làm nhiệm vụ huấn luyện tác chiến, bảo vệ an ninh các căn cứ Mỹ ở Hàn Quốc, thậm chí nhận thầu việc huấn luyện cố vấn cho quân đội nước ngoài như Kuwait, Balkans đến Nam Phi.
Lãnh đạo MPRI là tướng Carl Vuono, nguyên tư lịnh Bộ Binh Mỹ trong cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991. Các phụ tá: tướng Crosbie Saint, nguyên tư lịnh QĐ/HK ở châu Âu, tướng Harry Soyster, nguyên tư lịnh tình báo QĐ/HK.
Cựu đại tá Tom Sweeney, giáo sư đại học Army War College cho rằng, việc dùng công ty tư nhân giúp cho bộ Quốc Phòng tránh được dư luận của người dân Mỹ.
Đại sứ Mỹ ở Colombia thời tổng thống Clinton, nêu nhận xét: "Khi bọn buôn lậu ma túy bắn chết một binh sĩ Mỹ, người ta thấy những hàng tít lớn giật gân trên những tờ báo, kèm theo những lời chỉ trích nặng nề. Trái lại, 3 nhân viên DynCorp tham gia chiến dịch chống ma túy tại Nam Mỹ, bị giết chết tại Peru, thì người ta chỉ đọc một bản tin võn vẹn có 113 chữ trên tờ New York Times.
Và hãy tưởng tượng, dư luận Mỹ sẽ phản ứng như thế nào khi thi thể của 4 nhân viên của công ty tư nhân Blackwater bị treo trên cầu Fallujah, nếu 4 thi thể đó là quân nhân Mỹ? Có nhiều ý kiến cho rằng việc tư nhân hoá quân sự, giúp tránh được phản ứng của dân chúng Mỹ khi số thương vong gia tăng lên cao.
No comments:
Post a Comment