Monday, September 3, 2012

Bình Ngô Đại Cáo


Nguyễn Trãi , Bản Dịch Của Cụ Ưu Thiên Bùi Kỷ 

Đây là bản bố cáo của vị đại thần Nguyễn Trãi trình bày với quốc dân về công cuộc kháng chiến chống quân nhà Minh bên Tầu trong suốt 10 năm gian khổ hồi thế kỷ 15. Tài liệu này viết bằng chữ Hán (Cụ Bùi Kỷ dịch ra chữ quốc ngữ La Tinh), với lời lẽ hùng hồn sắc bén, nêu cao chí khí anh hùng của tiền nhân va` tinh thần bất khuất của dân tộc Việt ... khiến hậu thế hãnh diện & hứng khởi vì đất nước vinh quang.     
                
                  
Tượng mảng :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, 
Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo 
Như nước Việt ta từ trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu,
Sơn hà cương vực đã chia,
Phong tục bắc nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập, 
Cùng Hán, Ðường,Tống, Nguyên hùng cứ một phương. 
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, 
Song hào kiệt đời nào cũng có.

                   Vậy nên :

Lưu Cung sợ uy mất vía, 
Triệu Tiết nghe tiếng giật mình.
Cửa Hàm tử giết tươi Toa Ðô, 
Sông Bạch Ðằng bắt sống Ô Mã. 
Xét xem cổ tích
Đã có minh trưng.

                     Vừa rồi :

Vì họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước nhân dân oán hận.(?)
Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, 
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. 
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, 
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Chước dối đủ muôn nghìn khóe, 
Ác chứa ngót hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, 
Nặng khóa liễm vét không sơn trạch : 
Nào lên rừng đào mỏ, 
Nào xuống bể mò châu, 
Nào hố bẫy hươu đen, 
Nào lưới dò chim trả.
Tàn hại cả côn trùng thảo mộc,
Nheo nhóc thay ! quan quả điên liên. 
Kẻ há miệng đứa nhe răng máu mỡ bấy! no nê chưa chán.
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa 
Nặng nề về những nỗi phu phen,
Bắt bớ mất cả nghề canh cửi
Ðộc ác thay ! Trúc rừng không ghi hết tội, 
Dơ bẩn thay ! Nước bể khôn rửa sạch mùi
Lẽ nào trời -dất tha cho 
Ai bảo thần nhân nhịn được.

                    Ta đây :

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình. 
Ngắm non sông căm nỗi thế thù, 
Thề sống chết cùng quân nghịch tặc.
Ðau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa, 
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. 
N
hững trằn trọc trong cơn mộng mị, 
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, 
Chính là lúc quân thù đang thịnh

                          Lại ngặt vì :

Tuấn Kiệt như sao buổi sớm, 
Nhân tài như lá mùa thu
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
 
Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông
Mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. 
Thế mà trông người , người càng vắng ngắt,
                        vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương 
Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch.
Phần thì giận hung đồ ngang dọc, 
Phần thì lo quốc bộ khó khăn. 
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
(
Khi )Lúc khôi huyện quân không một
  lữ (đội)
Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng
Bắt trải qua bách chiết thiên ma, 
Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. 
Múa đầu gậy ngọn cờ phất phới,
           ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. 
Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào,
           khắp tướng sĩ, một lòng phụ tử. 
Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi,
     quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.


                            Dọn hay :

Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn 
Lấy chí nhân mà thay cường bạo
Trận Bồ Ðằng sấm vang sét dậy, 
Miền Trà Lân trúc phá tro baỵ 
Sĩ khí đã hăng , 
Quân Thanh càng mạnh. 
Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan, 
Phương Chính, Quý An tìm đường trốn tránh.
Ðánh Tây Kinh phá tan thế giặc, 
Lấy Ðông Ðô thu lại cõi xưa
Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông, 
Bến Tụy động xác đầy ngoài nội
Trần Hiệp đã thiệt mạng,
Lý Lương phải phơi thây
Vương Thông hết cấp lo lường, 
Mã Anh khôn đường cứu đỡ.
Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao, 
Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. 
Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui, 
Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt
Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người, 
Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. 
Ðến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Ðức, nhàm võ không thôi ; 
Lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Năm Ðinh Mùi tháng chín, 
Liễu Thăng tự Khâu Ôn tiến sang
Mộc Thạch tự Vân 
Nam kéo đến.
Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc quân, 
Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương đạo 
Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, 
Hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. 
Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong, 
Hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. 

Lưỡi dao ta đang sắc, 
Ngọn giáo giặc phải lùi
Lại thêm quên bốn mặt vây thành,
Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. 
Sĩ tốt ra oai tì hổ 
Thần thứ đủ mặt trảo nhạ
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, 
Voi uống nước, nước sông phải cạn. 
Ðánh một trận sạch thông kình ngạc
Ðánh hai trận tan tác chim muông. 
Cơn gió to trút sạch lá khô, 
Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. 
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi,
Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. 
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đồng, 
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay ! Sắc phong vân phải đổi, 
Thảm đạm thay ! Sáng nhựt nguyệt phải mờ. 
Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; 
Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần Trạm, chạy để thoát thân.
Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rỉ, 
Thành xương Ðan xá, cỏ nội đầm đìa
Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; 
Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống -dầụ 
Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; 
Thế lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
  Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
                             ra đến bể chưa thôi trống ngực. 
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
                             về đến Tàu còn đổ mồ hôi
Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú phục,
Ta toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ ngơi
 Thế mới là mưu kế thật khôn,
 Vả lại suốt xưa nay chưa có.


Giang sơn từ đây mở mặt
Xã tắc từ đây vững bền.
Nhật nguyệt hối mà lại minh,
Càn khôn bỉ mà lại thái
Nền vạn thế xây nên chăn chắn,
Thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu

 Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng
 giúp đỡ cho nước ta vậy.


                               Than ôi !

Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định, 
Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh. 
Bá cáo xa gần,
Ngỏ cùng nghe biết.         

No comments:

Post a Comment